Tro bay và xỉ lò cao khan hàng hoá giai đoạn cuối năm
Nhiệt điện than trong hệ thống điện
Kể từ năm 2000 đến nay, các nguồn nhiệt điện than được phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, quy mô công suất tổ máy cũng như công nghệ. Từ tổ máy công suất 300 MW, thông số hơi cận tới hạn của Phả Lại 2 được đưa vào vận hành giai đoạn 2001-2002, đến năm 2020 Việt Nam đã có nhiều tổ máy công suất 600 MW, sử dụng thông số hơi siêu tới hạn. Sự phát triển nhanh chóng của nhiệt điện than đã giúp Việt Nam giải quyết bài toán cung cấp điện cho phát triển khi tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, kèm theo đó là nhu cầu điện tăng ở mức trung bình 11% trong giai đoạn 10 năm đến trước đại dịch Covid-19. Tính đến cuối năm 2021, công suất lắp đặt của nhiệt điện than đạt khoảng 24,7 GW chiếm 32% tổng công suất nguồn điện của hệ thống [1]. Phần lớn công suất của các nhà máy nhiệt điện than hiện có thuộc sở hữu của các tập đoàn nhà nước như Tập đoàn Điện lực Việt Nam - EVN (57%), Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam - PVN (11%) và Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam - TKV (7%). Các nhà máy nhiệt điện than được đầu tư theo hình thức BOT và IPP chiếm lần lượt 16% và 9% về công suất lắp đặt. Với đặc điểm vận hành ổn định, không phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên như đối với các nguồn điện tái tạo, nguồn điện được sản xuất từ nhiệt điện than chiếm tới 46% tổng lượng điện sản xuất của hệ thống điện năm 2021 với hơn 118 tỷ kWh [1]. Các nhà máy nhiệt điện than ở Việt Nam được phân loại dựa trên 2 yếu tố chính là: công nghệ đốt và thông số hơi.
Về công nghệ đốt, các nhà máy nhiệt điện than tại Việt Nam đang sử dụng một trong hai loại: lò đốt than phun - PC và lò hơi tầng sôi tuần hoàn - CFB. Các nhà máy dùng công nghệ PC hiện có hiệu suất 32-41%, trừ một số nhà máy có hiệu suất thấp do đã vận hành lâu năm như Ninh Bình (23%), Phả Lại 1 (26,38%). Các nhà máy thông số hơi trên tới hạn (Vĩnh Tân 1, Duyên Hải 3 và Duyên Hải 3MR) có hiệu suất thô tính theo nhiệt trị thấp khoảng 37-41% trong khi các nhà máy sử dụng thông số cận tới hạn như Mông Dương 2, Vĩnh Tân 4, Vũng Áng 1 có hiệu suất 33-38% [1]. Hiện tại, các nhà máy điện ở Việt Nam (tùy theo tình trạng thiết bị) hàng năm sẽ tiến hành tiểu tu, sau khoảng 2 năm sẽ tiến hành trung tu và sau 4-5 năm vận hành sẽ tiến hành đại tu toàn bộ tổ máy. Quá trình sửa chữa, bảo dưỡng tổ máy một cách định kỳ sẽ giúp tăng sự ổn định và đảm bảo hiệu suất của thiết bị trong quá trình vận hành. Việc quản lý vận hành bảo dưỡng như hiện nay còn nhiều thách thức, chẳng hạn như các quy định về chế độ bảo dưỡng bắt buộc chưa cụ thể, quy trình bảo dưỡng chưa hoàn thiện… Những năm gần đây, công tác bảo vệ môi trường đối với các nhà máy nhiệt điện than cũng đã được quan tâm, đầu tư hơn. Trong giai đoạn 2000-2015, nếu các nhà máy nhiệt điện than chỉ được đầu tư thiết bị xử lý bụi, SOx thì đến giai đoạn 2015-2020 nhiều nhà máy đã được đầu tư thêm thiết bị xử lý NOx. Hiện tại tất cả các nhà máy nhiệt điện than đã được lắp đặt hệ thống lọc bụi tĩnh điện (ESP) với hiệu suất xử lý bụi đạt trên 99,7%. Năm 2019, các nhà máy nhiệt điện than phát thải 106 MtCO2, chiếm 84% tổng phát thải trong lĩnh vực sản xuất điện [2]. Hiện các nhà máy nhiệt điện than ở Việt Nam đều chưa áp dụng công nghệ thu hồi CO2 do mức độ sẵn sàng của các công nghệ này ở Việt Nam là rất thấp.
Thách thức đối với ngành nhiệt điện than ở Việt Nam
Các cam kết mạnh mẽ của Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 26 (COP26) sẽ có nhiều tác động đến tương lai ngành điện than. Bên cạnh tuyên bố hướng tới phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050, Việt Nam đã ký kết Tuyên bố chung về chuyển dịch từ than sang năng lượng sạch, trong đó cam kết dừng sản xuất điện than không có công nghệ thu hồi CO2 đến năm 2040, ngừng cấp giấy phép mới cho các dự án nhiệt điện than không có công nghệ thu hồi CO2 mà chưa hoàn tất quá trình phê duyệt tài chính và ngừng xây dựng các dự án nhiệt điện than mới không có công nghệ thu hồi CO2. Dự thảo Quy hoạch điện VIII bản tháng 11/2021 cũng đã có sự điều chỉnh giảm và giãn tiến độ xây mới các nhà máy nhiệt điện than, trong đó cắt giảm khoảng 7,8 GW các dự án khó khả thi như Quỳnh Lập I&II (2,4 GW), Vũng Áng III (2,4 GW), Long Phú II (1,2 GW) và Long Phú III (1,8 GW). Tuy nhiên, tổng công suất điện than trong dự thảo đến năm 2030 vẫn đặt mục tiêu là 39,7 GW (tăng ~15 GW so với tổng công suất lắp đặt nhà máy điện than năm 2021) và đạt 50,9 GW vào năm 2045.
Việc phát triển nhiệt điện than tại Việt Nam bên cạnh những khó khăn về huy động vốn, sự đồng thuận của người dân và chính quyền địa phương, còn có những thách thức không nhỏ về mặt kỹ thuật. Do tính chất của nguồn than antraxit trong nước có nhiệt trị thấp, độ tro cao, chất bốc thấp nên không phù hợp cho phát triển các nhà máy nhiệt điện than sử dụng công nghệ siêu tới hạn hoặc trên siêu tới hạn (như USC và A-USC) hoặc công nghệ khí hóa than (IGCC). Các nhà máy này sử dụng nguồn than nhập khẩu. Như vậy, địa điểm xây dựng các nhà máy sẽ phải đáp ứng thêm các yêu cầu liên quan tới năng lực cảng nhập than/hoặc tiếp nhận tàu trọng tải lớn vận chuyển than nhập khẩu.
Sự phát triển nhanh chóng của các nguồn năng lượng tái tạo như gió và mặt trời đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến chế độ vận hành của các nhà máy điện than. Mặc dù trong năm 2020, các nhà máy này vẫn được huy động ở mức tương đối cao với số giờ vận hành trung bình là 6.250 h/năm (trừ các nhà máy mới đi vào vận hành năm 2020 là Hải Dương và Sông Hậu 1), trong tương lai số giờ vận hành của các nhà máy nhiệt điện than sẽ giảm dần khi tỷ trọng năng lượng tái tạo tiếp tục tăng lên. Theo đó, chế độ làm việc của các nhà máy điện đốt than cũng sẽ thay đổi, điều này ảnh hưởng đến hiệu suất nhiệt và tuổi thọ thiết bị. Để có thể thích ứng được với việc vận hành trong điều kiện này thì yếu tố tiên quyết là các nhà máy cần tăng được độ linh hoạt. Bên cạnh đó, với yêu cầu ngày càng cao về tiêu chuẩn/quy chuẩn môi trường, kết hợp với sự phát triển về kinh tế - xã hội, sẽ đòi hỏi sự đáp ứng cao hơn về mức phát thải (bụi, SO2, NOx, nước thải, chất thải rắn) và nguồn nước thải làm mát hoặc nước thải từ dây chuyền công nghệ của các nhà máy nhiệt điện. Đặc biệt, với các cam kết mạnh mẽ về cắt giảm phát thải sẽ có thêm các yêu cầu về thu hồi CO2 phát thải trong quá trình vận hành nhà máy hay dừng vận hành trước thời hạn đối với một số nhà máy điện than.
Tương lai cho điện than trong bối cảnh mới
Sự cấp thiết của yêu cầu bảo vệ khí hậu sẽ cần có những hướng đi mới cho ngành điện than, nhằm đảm bảo cân bằng giữa ba trụ cột chính của phát triển bền vững là kinh tế - xã hội và môi trường. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, việc dừng hoạt động các tổ máy nhiệt điện than hiệu suất thấp trước thời hạn, kết hợp với tăng hiệu suất và khả năng vận hành linh hoạt các tổ máy bằng cách cải tạo trang thiết bị và cải tiến công tác vận hành bảo dưỡng sẽ rất cần thiết để đạt được các mục tiêu này [3].
Sau 15 lần giảm giá liên tiếp, mới đây giá thép nội địa đã bật tăng trong 2 phiên điều chỉnh. Liệu đà tăng này có kéo dài trước những biến động từ thị trường trong và ngoài nước?
Nguồn cung gặp khó
Ngành thép châu Âu đang đối mặt với khủng hoảng trầm trọng vì giá khí đốt tăng mạnh sau thông tin Nga khóa đường ống dẫn khí đốt Nord Stream 1 vô thời hạn. Nord Stream 1 đóng vai trò quan trọng khi chiếm tới 1/3 tổng lượng khí đốt Nga xuất khẩu sang châu Âu.
Khí đốt được ứng dụng trong nhiều hoạt động khác nhau tại các nhà máy sản xuất thép như dùng để hàn, cắt, làm nguồn nhiệt điện, chất khử. Đóng cửa phiên giao dịch ngày 5/9, giá khí đốt giao sau tại thị trường châu Âu tăng hơn 25%, có lúc tăng đến 40% trong phiên.
Nga đưa ra tuyên bố chỉ mở lại đường ống nếu châu Âu dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt đã áp lên quốc gia này, gây ra nhiều lo ngại tình trạng này có thể kéo dài. Trước đó, EU đã thông qua lệnh cấm nhập khẩu 2/3 lượng dầu mỏ và cấm hoàn toàn than nhập khẩu từ Nga.
Một loạt hành động này đã đẩy giá điện và giá nhiên liệu tại châu Âu tăng vọt. Một số nhà máy thép trong khu vực đã phải cắt giảm một phần hoặc ngừng toàn bộ hoạt động sản xuất.
Ngoài ra, giá than cốc, nhiên liệu chính để sản xuất thép, đã đạt gần 300 USD/tấn, tăng khoảng 90 USD so với hồi đầu tháng 8 (theo dữ liệu từ SteelMint). Giá nguyên liệu đầu vào leo thang kéo theo chi phí vận hành của các nhà máy thép cao hơn.
Thị trường thép Trung Quốc đã có phản ứng trước giá nguyên vật liệu tăng cao.
Ngày 6/9, giá thép thế giới trên sàn giao dịch Thượng Hải đã tăng trở lại sau chuỗi giảm kéo dài. Đến ngày 7/9, giá thép giao tháng 1/2023 tiếp tục tăng lên mức 3.677 Nhân dân tệ/tấn.
Giá quặng sắt 63,5% Fe giao tại cảng Thiên Tân cũng tăng 3% so với tuần trước. Giá quặng giao tháng 1 trên sàn Đại Liên tăng 4% so với cuối tuần trước.
Tại thị trường trong nước, sau 15 lần giảm giá liên tiếp trong vòng 4 tháng qua, giá thép đã bật tăng trở lại vào hôm 31/8. Giá thép trong nước tiếp tục đi ngang, và có dấu hiệu tiếp tục tăng từ ngày 6/9.
Giữa bối cảnh giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, giá thép nội địa đã có phiên tăng thứ hai liên tiếp trong ngày 7/9. Sau hai lần điều chỉnh, giá thép đã tăng gần 1 triệu đồng/tấn.
Nhu cầu thép có gia tăng ở những tháng cuối năm?
Trung Quốc là nhà sản xuất và tiêu thụ thép lớn nhất thế giới, chiếm hơn một nửa sản lượng và nhu cầu thép thành phẩm toàn cầu.
Tổng sản lượng tiêu thụ thép thành phẩm trên toàn cầu năm 2021 đạt 1.834 triệu tấn. (Nguồn ảnh: World Steel)
Nhu cầu thép của Trung Quốc phần lớn được hỗ trợ bởi các dự án cơ sở hạ tầng và bất động sản trong thập kỷ qua. Tuy nhiên, thị trường bất động sản Trung Quốc đang rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng, hàng loạt dự án bị đình trệ.
Đồng thời, chính sách zero-covid tại nhiều thành phố lớn tiếp tục kéo chậm nền kinh tế Trung Quốc, cản trở sự phục hồi của lĩnh vực bất động sản.
Nhu cầu tiêu thụ thép tại thị trường Trung Quốc trở nên suy yếu khiến cho tỷ trọng xuất khẩu thép sang quốc gia 1,4 tỷ dân giảm mạnh. Năm 2021, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu thép lớn thứ 2 của Việt Nam. Tuy nhiên, đến tháng 8/2022, Trung Quốc đã tụt về cuối bảng xếp hạng top 10 thị trường xuất khẩu thép của Việt Nam.
10 thị trường xuất khẩu thép lớn nhất của Việt Nam, theo số liệu mới nhất từ Hiệp hội Thép Việt Nam.
Thị trường thép Hoa Kỳ cũng không mấy lạc quan. Ngày 29/8, giá thép HRC kỳ hạn tháng 9 của Mỹ giảm 10,4% so với tháng trước, rơi xuống mức thấp nhất trong gần hai năm qua.
Tăng trưởng kinh tế chậm lại do lạm phát và lãi suất gia tăng, chi phí năng lượng cao và lo ngại suy thoái đã làm giảm nhu cầu thép, gây áp lực lên thị trường thép toàn cầu.
Hoàn cảnh khó khăn này cũng được dự báo sẽ xảy ra tại châu Âu. Hiệp hội Thép châu Âu cho biết nhu cầu thép tại châu lục này sẽ giảm trong 4 tháng cuối năm 2022. Do những bất ổn đến từ khủng hoảng năng lượng đang diễn ra, lạm phát, gián đoạn chuỗi cung ứng và cuộc chiến của Nga ở Ukraine.
6 tháng đầu năm 2022, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 4,38 triệu tấn thép, giảm 17,49% so với cùng kỳ 2021, theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA).
Tại thị trường Việt Nam, Thủ tướng đã yêu cầu đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 khi ước tính thanh toán vốn kế hoạch 8 tháng qua mới chỉ đạt 35,49% kế hoạch và đạt 39,15% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, theo số liệu từ Bộ Tài chính.
Nhờ đó, thị trường thép vẫn còn dư địa tăng trưởng ở thị trường nội địa khi hoạt động giải ngân vốn đầu tư, tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, được triển khai mạnh mẽ vào cuối năm.
Các dự án trọng điểm như cao tốc Bắc - Nam, Cảng hàng không quốc tế Long Thành, xây dựng đường Vành đai tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, 3 dự án xây dựng đường cao tốc… sẽ hỗ trợ kích cầu thị trường thép.
Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định nhu cầu thép xây dựng sẽ sớm phục hồi khi giải ngân vốn đầu tư công tăng tốc từ cuối năm 2022 sau khi kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025 hoàn thành giai đoạn phê duyệt thủ tục.
Dù giá thép đã giảm trên dưới 5 triệu đồng/tấn trong 4 tháng qua, nhưng các nhà thầu vẫn gặp khó khăn khi giá thành các nguyên vật liệu xây dựng khác còn ở mức cao. Một số chủ đầu tư cũng đang phải xoay sở dòng tiền khi hoạt động tín dụng chịu sự kiểm soát chặt chẽ.